The heat death of the universe (also known as the Big Chill or Big Freeze) [1] is a hypothesis on the ultimate fate of the universe, which suggests the universe will evolve to a state of no thermodynamic free energy and will, therefore, be unable to sustain processes that increase entropy. Heat death does not imply any particular absolute
Lật lại vụ án ÔN NHƯ HẦU thì chúng ta sẽ rõ âm mưu của Hồ Chí Minh tàn ác như thế nào. Trong giai đoạn 1945-1946, chính phủ Việt Nam tại Hà Nội là một chính phủ có nhiều đảng phái, trong đó có lực lượng Việt Minh do người cộng sản làm nòng cốt.
Cái chết thảm của 'nữ thần bài'. Mỹ Triệu Tô Xuyến với tài tính toán hơn người đã liên tục thắng bạc khi chơi Poker song với cô tiền thưởng không phải là mục đích. Tháng 8/2020, một thi thể phụ nữ cháy đen được phát hiện dưới hầm để xe khu vui chơi ở bang
Có lẽ không mấy hứng thú khi nghĩ đến cái chết, nhưng đó lại là điều mà không ai tránh khỏi. "Người chết đi về đâu?" là một trong những giá trị cổ xưa nhất của nền văn minh Tây Tạng đã làm kinh ngạc nhiều độc giả phương Tây.
Cái chết của Lão Hạc có ý nghĩa gì là một trong những câu hỏi mà học sinh cần trả lời được sau khi đọc xong truyện “Lão Hạc” của nhà văn Nam Cao. Đây là một tác phẩm giàu ý nghĩa nhân văn và hiện thực phê phán.
Thien Vien Thuong Chieu - So 1C, Phuoc Thai, Long Thanh, Dong Nai. Dien Thoai: 061.384.1071, 061.354.2631, Email: tvthuongchieu@vnn.vn - banbientap@thientongvietnam.net
3HB8x. Tự cổ chí kim, con người luôn khao khát và tìm cầu mọi cách để được trường sinh bất tử. Thế nhưng, lưới vô thường sanh, lão, bệnh, tử nào có chừa một ai? Bất tử có chăng là những gì mà con người đã cống hiến hết mình cho cuộc đời, cho nhân sinh bằng những phẩm chất và hành động cao quý để rồi sau khi nhắm mắt xuôi tay được thế gian ca tụng, lưu truyền mãi về sau. Quả thật là chân bất tử của một kiếp người và Tăng đoàn Phật giáo cũng đã có những con người bất tử như thế. Một trong những tấm gương đó chính là tôn giả Rāhula La-hầu-la. Tôn giả Rāhula La-hầu-la, một vị A-la-hán trẻ tuổi nhất trong Thập đại đệ tử Phật. Ngài là người rất tự giác, mặc tịnh và trầm tư. Cuộc đời của tôn giả Rāhula để lại cho chúng ta nhiều bài học về phẩm hạnh cao quý về quá trình trau dồi giới đức và trí tuệ. Mật hạnh của Ngài không những là mẫu người lý tưởng cho Tăng đoàn thời Phật còn tại thế mà cho đến ngày nay, Tăng Ni trẻ trong thời đại công nghệ số nói riêng và những ai quan tâm đến một đời sống phạm hạnh, thanh tịnh nói chung cần lấy đó làm tấm gương để học tập và hành trì. MẬT HẠNH TÔN GIẢ Rāhula La-hầu-la Kinh điển ghi lại rằng bảy vị Phật trong quá khứ đều có con khi còn ở đời sống thế gian như “Đức Phật Tỳ-bà-thi có con tên Phương Ưng. Phật Thi-khí có con tên Vô Lượng. Tỳ-xá-bà có con tên Diệu Giác. Câu-lưu-tôn có con tên Thượng Thắng. Câu-na-hàm có con tên Đạo Sư. Ca-diếp có con tên Tập Quân. Ta nay có con tên là La-hầu-la” [1]. Tôn giả Rāhula sinh ra và lớn lên tại kinh đô Kapilavatthu của tộc Sākya thuộc vương quốc Kosala, trên vùng biên giới Nepal và Bắc Ấn; là cháu nội của của vua Suddhodana Tịnh Phạn dòng dõi Gotama và hoàng hậu Mahāmāyā Ma Da. Tôn giả là đứa con trai duy nhất của thái tử Siddhattha Tất-đạt-đa và công chúa Yasodharā Da-du-đà-la. Ảnh Tôn giả Rāhula sinh ra và lớn lên tại kinh đô Kapilavatthu Ca-tỳ-la-vệ của tộc Sākya Thích-ca thuộc vương quốc Kosala Kiều-tát-la, trên vùng biên giới Nepal và Bắc Ấn; là cháu nội của của vua Suddhodana Tịnh Phạn dòng dõi Gotama và hoàng hậu Mahāmāyā Ma Da. Tôn giả là con trai duy nhất của thái tử Siddhattha Tất-đạt-đa và công chúa Yasodharā Da-du-đà-la. Sử liệu Nam truyền Phật giáo ghi nhận Rāhula xuất gia năm lên 7 tuổi, từ vị Sa di nhỏ tuổi nhất trải qua 13 năm thực tập lời Phật dạy đến năm 20 tuổi cầu thọ Cụ túc giới. Ở lứa tuổi ấy, những phẩm hạnh đáng kính của Tôn giả Rāhula được Đức Phật tán thán “Trong các vị đệ tử Tỳ-kheo của Ta ưa thích học tập, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Rāhula” [2]. Điều này được thể hiện qua hình ảnh Sa-di Rāhula luôn có thói quen dậy sớm vào buổi sáng nhặt lên một nắm cát và tự nhủ “Cầu mong cho tôi có được những lời giáo giới từ Đức Thế Tôn và thầy tế độ của tôi nhiều như những hạt cát trong tay của tôi” [3]. Đây là một trong những mật hạnh cao quý của Tôn giả. Chính khát khao này sẽ xây dựng cho Rāhula thói quen sống xứng đáng với người cha đại trí của mình và được người đời sau tôn kính. Chuyện tiền thân Tipallatthamiga kể về con nai cháu với ba cử chỉ đã học từ những đức tính tốt đẹp, khôn ngoan của loài nai đặc biệt là của nai cậu tiền thân Phật và nai mẹ Upplavannā, cứu sống nó khỏi sự truy sát từ người thợ săn. Con nai cháu đó chính là tiền thân của Tôn giả Rāhula. Đức Thế Tôn một lần nữa khẳng định “Rāhula không phải nay mới ham học, thuở trước cũng đã ham học như vậy” [4]. Với đức tính tốt đẹp như vậy, lại có quan hệ huyết thống đối với Đức Thế Tôn, nếu là những vị còn tâm tánh phàm phu chắc hẳn sẽ thường dựa dẫm, ỷ lại vào Đức Phật, nhưng Rāhula không như vậy. Trong số ba bài kinh tiêu biểu cho việc giáo giới Rāhula, chính Đức Phật đã hai lần đích thân gặp Tôn giả để thăm và giảng dạy. Điều này cho thấy mật hạnh của Rāhula rất đáng ngưỡng mộ, dù tuổi còn rất nhỏ. Rāhula không bao giờ bày tỏ thái độ bất kính đối với Thế Tôn cũng như các vị trưởng lão trong Tăng đoàn. Kinh tạng còn ghi lại câu trả lời của Rāhula với Đức Phật “Thường chung sống người hiền, Con không có khinh miệt Người cầm đuốc loài người Thường được con tôn trọng” [5]. Mật hạnh của Rāhula còn được Đức Thế Tôn ấn chứng trong pháp hội Long Hoa “Hạnh kín của Rāhula chỉ Ta biết mà thôi” [6]. Kinh tạng còn ghi lại câu trả lời của Rāhula với Đức Phật “Thường chung sống người hiền/ Con không có khinh miệt/ Người cầm đuốc loài người/ Thường được con tôn trọng”. Ảnh Tranh Ấn Độ Kinh Ambalathika Rahulovada ghi lại sự kiện Đức Phật đến thăm Rāhula khi Tôn giả đang ở rừng Ambala. Tôn giả sắp đặt chỗ ngồi và nước rửa chân để hầu cận Đức Thế Tôn. Sau khi rửa chân, Đức Phật đã để lại chút ít nước trong chậu và dụ cho “Sa môn hạnh của người nào biết nói láo, không có tàm quý” [7]. Kế đó, Ngài đổ nước đi, lật úp chậu rồi lại lật ngửa chậu lên. Hình ảnh ấy ví dụ cho Sa-môn hạnh trống rỗng của những người biết nói láo, không có tàm quý vậy. Sử dụng hình ảnh chậu nước để giáo giới là một phương pháp dạy dỗ rất khéo léo của Đức Thế Tôn đối với lứa tuổi như Rāhula lúc bấy giờ. Tính chân thật là điều đầu tiên Đức Phật muốn dạy Rāhula trong những ngày chập chững bước vào sinh hoạt Tăng đoàn. Bởi lẽ, người thế gian còn lấy sự thật thà, ngay thẳng, không lừa gạt mình, không dối gạt người làm quy chuẩn cho đạo đức ứng xử để hình thành nên nhân cách con người. Người thực hành lời Phật dạy càng phải lấy tính chân thật làm nền tảng căn bản cho tự thân. Chính đức tính ấy sẽ làm cho đời sống phạm hạnh được thăng hoa. Đức Phật tiếp tục sử dụng hình ảnh “Một con voi của vua, có ngà dài như một cán cày, to lớn, khéo luyện, thường có dùng hai chân trước, dùng hai chân sau, dùng phần thân trước, dùng phần thân sau, dùng đầu, dùng tai, dùng ngà, dùng đuôi nhưng bảo vệ cái ngà… Cũng vậy, này Rāhula, đối với ai biết mà nói láo, không có tàm quý, thời Ta nói rằng người ấy không có việc ác gì mà không làm” [8]. Xuất thân từ hoàng cung xứ Ấn Độ xưa, hình ảnh con voi không còn gì xa lạ đối với Rāhula. Qua hình ảnh voi, Đức Thế Tôn muốn răn dạy Tôn giả rằng người thế gian cũng không được nói dối gạt người, còn với người đã từ bỏ gia đình thì việc chơi đùa sẽ không đưa đến một lợi ích tốt đẹp nào cho con đường tu tập, huống chi đến việc nói láo để mà giỡn cợt thì quả thật là điều không nên làm. Cuối cùng, Đức Phật dạy cho tôn giả Rāhula quán xét nội tâm, thấy việc nào đưa đến khổ đau, hãy từ bỏ và vững niềm tin mà hành động, không chỉ bắt tay vào làm, mà còn quán chiếu trong khi đang và sau khi làm, thông qua hình ảnh cái gương “Này Rāhula, sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành thân nghiệp… hãy hành khẩu nghiệp… hãy hành ý nghiệp” [9]. Cái gương ở đây không dùng để soi mặt, mà soi chiếu tâm hồn của chính mình cho phù hợp với nếp sống đạo đức và lời Phật dạy để trừ diệt mọi ý niệm, lời nói, hành vi bất thiện nhằm đem lại lợi ích cho mình và người. Bởi nếu tổn hại đến chính mình và người khác là chánh nhân của bất thiện pháp đưa đến đọa xứ khổ đau. Vì thế, bài pháp này còn được xem là đường lối phản tỉnh của tất cả Sa-môn chứ không phải của Đức Phật giảng dạy dành riêng cho Tôn giả. Trong bước chân đầu đời thực hành phạm hạnh, đây quả thật là những lời giáo huấn tâm niệm vô cùng tuyệt vời, đúng lúc, đúng thời, làm nền tảng để Rāhula hoàn thiện bản thân mình. Đây cũng là hàng rào giúp Tôn giả kiện toàn về giới hạnh, không vi phạm vào những quy định mà Đức Phật đề ra trong Tăng đoàn. Trong “Đại kinh Giáo Giới Rāhula” Đức Thế Tôn nhân buổi đi khất thực tại Sāvatthi Xá-vệ cùng Tôn giả Rāhula khi ấy đã được 18 tuổi, đã dạy Rāhula đối với Năm uẩn, Bốn đại… “Phải quán sát như thật với chánh trí tuệ cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta” [10]. Tôn giả quyết tâm nỗ lực tu tập, thực hành các thiện pháp ngõ hầu thăng tiến trên con đường tâm linh. Năm Tôn giả hai mươi tuổi, khi được truyền thọ Cụ túc giới sau 13 năm gia nhập Tăng đoàn, vào mùa an cư đầu tiên của Tỳ-kheo Rāhula, Đức Thế Tôn quán chiếu thấy Tôn giả đã thuần thục các pháp, trình độ tâm linh đã chín muồi cần được huấn luyện để đoạn tận các lậu hoặc. Đây là lần thứ hai, Đức Phật đi tìm Rāhula, gọi đến Andhavana giáo giới. Đức Thế Tôn dạy con mắt là vô thường, do vô thường chịu sự biến hoại, thời không có hợp lý khi quán cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi. Cũng như vậy, đối với sự quán chiếu về năm căn và năm trần, tất cả đều vô thường, khổ và vô ngã. “Vị đa văn thánh đệ tử là người nhìn thấy như vậy sẽ sanh khởi sự yếm ly, ly tham, do ly tham vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát là sự hiểu biết Ta đã được giải thoát. Và vị ấy biết Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa” [11]. Do huân tập căn lành từ vô lượng kiếp cùng với sự nỗ lực tu tập miên mật, không giải đãi, từ ngày gia nhập Tăng đoàn, qua bài thuyết giảng của Thế Tôn thì Rāhula được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không chấp thủ. Rāhula thành tựu được quả vị A-la-hán lúc 20 tuổi và trở thành vị A La Hán trẻ nhất trong Giáo hội. Những bài Kinh được Đức Thế Tôn giáo giới cho Tôn giả Rāhula chỉ mang con số khá khiêm tốn với các bài Kinh tiêu biểu như Ambalathika Rahulovada Sutta Kinh Giáo giới Rāhula ở rừng Ambala M,i,61; Maha Rahulovada Sutta Đại Kinh Giáo giới Rāhula M,i,62; Cula Rahulovada Sutta Tiểu Kinh Giáo giới Rāhula M,ii,147 cùng một vài bài kinh nói về tiến trình quán chiếu các pháp trong Tương Ưng bộ kinh. Tuy nhiên, nếu hệ thống lại theo tiến trình tu tập của Tam vô lậu học thì vào những năm đầu trở thành Sa-di Rāhula, Đức Thế Tôn đã dạy Tôn giả về đạo đức của một người xuất gia đó chính là con đường thành tựu Giới uẩn. Năm 18 tuổi, Ngài lại dạy Tôn giả về phương pháp thực tập thiền quán, con đường thành tựu Định uẩn. Cuối cùng, 20 tuổi được truyền thọ Cụ túc giới, sau khi quán chiếu các thiện pháp đã thành tựu thì Đức Phật dạy Rāhula về con đường đưa đến thành tựu Tuệ uẩn, chứng đắc đạo quả. Ngoài ra, mật hạnh dễ thương kín đáo, vâng lời và vô cùng cung kính với các bậc Tỳ-kheo của Rāhula còn được minh chứng trong Jātaka 16 Chuyện tiền thân Chuyện con nai có ba cử chỉ. “Thỉnh thoảng, các Tỳ kheo từ xa đến, vì mục đích thử thách, thường quăng bên ngoài cái các chổi hay một ít rác, chờ khi tôn giả đến và hỏi – Hiền giả, ai quăng đồ rác này?” Nếu không phải là một vị thật tu, thật học, chắc hẳn sẽ tìm mọi cách chứng minh cho sự trong sạch của mình hay làm ngơ bỏ đi để tránh gây phiền phức hoặc thưa con không biết việc này. Trái lại, “Tôn giả thường dọn rác ấy đi, im lặng, khiêm tốn xin lỗi và sau khi được tha lỗi mới đi” [12]. Với phương cách ứng xử ấy, Rāhula càng cho thấy được hạnh nhẫn nhục, khiêm nhường đã được thành tựu một cách sâu kín trong thân tâm của Tôn giả. Hơn thế nữa, khi Đức Phật quy định Tỳ-kheo nào nằm ngủ chung với người chưa thọ đại giới là phạm tội Pācittiya Ưng đối trị. Các vị Tỳ-kheo đã chỉ dạy Rāhula hãy tìm chỗ ở của mình vì trước đấy Tôn giả ngủ cùng với các vị khác. Rāhula không còn nơi để ngủ vì là người nhỏ nhất trong Tăng đoàn nhưng “Rāhula không đi đến Thế Tôn là phụ thân của mình, cũng không đi đến Sāriputta là vị tướng quân chánh pháp cũng là Giáo thọ sự của mình, cũng không đi đến Moggallāna là bậc Sư trưởng của mình, lại đi vào phòng vệ sinh của Thế Tôn, như thể đi vào cung điện Phạm thiên và trú ở đấy” [13]. Tranh Thangka Rāhula. Ảnh Lựa chọn nơi ở ấy Rāhula không vì cảnh sang trọng được làm bằng đất thơm, mà chính vì kính trọng lời khuyên bảo của các bậc trưởng thượng, vì muốn học tập nên trú chỗ ấy. Khi Phật hỏi, Tôn giả từ tốn bạch rằng “Vì không có chỗ, vì sợ phạm tội, không cho con chỗ ở; vì nghĩ rằng đây là chỗ không va chạm một ai, nên con nằm ở đây” [14]. Câu trả lời của Rāhula không có tâm ỷ lại là con của Thế Tôn, không chống đối, trách oán hay sân giận với các Tỳ kheo. Chính việc làm này đã khiến Đức Phật xúc động mạnh mẽ trong chánh pháp. “Này Xá-lợi-phất, nếu các ông vứt bỏ La-hầu-la như vậy, thì đối với các lớp trẻ mới xuất gia, có gì các ông không làm được? Nếu sự việc là vậy, những ai xuất gia trong giáo pháp này sẽ không ở lại. Bắt đầu từ hôm nay, các ông được phép cho người chưa thọ đại giới ở chung một hay hai ngày. Đến ngày thứ ba, cho họ ở ngoài, sau khi biết chỗ ở của họ” [15]. Tất cả những điều trên đã minh chứng cho đức hạnh kín đáo, thành tựu các oai nghi tế hạnh cũng như sự quyết tâm tu tập đạt đến tâm giải thoát và tuệ giải thoát của vị thánh Rāhula. HIỆN TRẠNG VÀ TƯƠNG LAI CỦA ĐỜI SỐNG PHẠM HẠNH Kinh Tương Ưng bộ, Đức Phật dạy về nguyên nhân mất đi diệu pháp rằng “Ở đây, này Kassapa, các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống không tôn kính, không tùy thuận bậc Đạo sư… không tùy thuận Chánh pháp… không tùy thuận chúng Tăng… không tùy thuận học giới… không tùy thuận đối với thiền định. Này Kassapa, chính những thối pháp này đưa đến sự hỗn loạn, sự biến mất của diệu pháp” [16]. Vì thế, những vấn đề được trình bày ở trên là các chuẩn mực mà Đức Phật đưa ra để làm sống dậy đời sống Tăng đoàn. Cho dù, đạo Phật là đạo của từ bi, trí tuệ, vô ngã, vị tha, nhưng không phải ai cũng có thể xuất gia được, cũng không phải ai cũng có thể tu tập và chứng đạo được. Thế nên, Luật Ma Ha Tăng Kỳ đưa ra 32 điều mà một người nếu phạm dù chỉ là một điều ví như lừa đảo, phạm ngũ nghịch, mù điếc, câm què… thì cũng không thể xuất gia được [17]. Ở đây, Thế Tôn không phải là không thể hiện tinh thần từ bi hay bất bình đẳng mà vì Ngài không muốn giáo pháp bị huỷ hoại bởi những người không đủ khả năng hay không đủ tư chất kham nhẫn mà hành trì những lời dạy thậm thâm vi diệu ấy. Thông qua những mật hạnh, phẩm chất của tôn giả Rāhula, người viết cho rằng Đây là cơ hội để tất cả những ai tự xem mình là Sứ giả Như Lai, đặc biệt là Tăng Ni trẻ cần phải quán xét sự thực hành phạm hạnh của bản thân. Cố gắng phát huy điểm tích cực, sửa đổi những mặt chưa được, chưa tốt để chuyển hóa thân tâm trong chánh pháp. Sau đó, dùng “thân” giáo để giáo hóa chúng sanh như tấm gương của Tôn giả Rāhula đã từng làm, đây cũng là cách vừa an toàn, vừa hiệu quả cho những ai muốn báo ân đức của Đức Từ phụ và tha thiết đoạn sanh tử luân hồi. Hay nói cách khác, mật hạnh của Tôn giả Rāhula là tấm gương sống, mẫu người lý tưởng cho những ai mong muốn vẹn toàn giữa đạo và đời SC. Thích Nữ Hạnh Liên Chú thích [1] Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh Tập I, Kinh Trường A Hàm, Taiwan, 2000, [2] Minh Châu dịch, Tăng Chi Bộ Kinh tập I, Nxb Tôn giáo, 2018, [3] Tỳ kheo Minh Huệ dịch, Đại Phật Sử VI, Nxb Hồng Đức, 2019, [4] Minh Châu dịch, Tiểu Bộ Kinh tập III, Nxb Tôn giáo, 2018, [5] Minh Châu dịch, Tiểu Bộ Kinh tập I, Nxb Tôn giáo, 2018, [6] HT Thích Trí Tịnh dịch, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Nxb Tôn Giáo, 2011, [7] HT Thích Minh Châu dịch, Trung Bộ Kinh tập I, Nxb Tôn giáo, 2018, [8] Sđd, [9] Sđd, [10] HT Thích Minh Châu dịch, Trung Bộ Kinh tập I, Nxb Tôn giáo, 2018, [11] Sđd, [12] HT Thích Minh Châu dịch, Tiểu Bộ Kinh tập III, Nxb Tôn giáo, 2018, [13 Sđd, [14] Sđd, [15]Sđd, [16] HT. Thích Minh Châu dịch, Tương Ưng Bộ Kinh, Nxb Tôn giáo, 2018, [17] Thích Trung Hữu, Đừng Ham Hành Đạo Sớm. Bài đăng trên báo Giác Ngộ, số 1020, 11/10/2019,
Tôn giả La-hỗ-la chính là La-hầu-la, con của thái tử Tất-đạt-đa. Ngài là vị La-hán thứ mười một trong mười sáu vị La-hán. Ngài cùng một ngàn một trăm đệ tử trú tại Tất-lợi-dương-cù châu. Trong “Thập đại đệ tử Phật”, ngài được xưng tán là vị Mật hạnh đệ nhất. Về cuộc đời Ngài, chúng tôi đã giới thiệu rất nhiều trong quyển “Thập đại đệ tử Phật” của Từ ân Phật giáo nhi đồng tùng thư, ở đây chỉ nói thêm vài mẫu chuyện thú vị khác. Ba chữ “La-hầu-la” hán dịch là Phú Chướng. Vì sao Đức Phật đặt cho ngài tên này? Câu chuyện được tương truyền như sau. Đức Phật dạy La Hầu La về tầm quan trọng của hạnh chân thật qua ví dụ cái gương Khi chưa ra đời, ngài ở trong bụng vương phi Da-du-đà-la suốt sáu năm. Thông thường, trẻ con ở trong bụng mẹ lâu nhất cũng chỉ có mười tháng, thế mà ngài lại ở đến sáu năm, thật kỳ lạ! Nguyên nhân là vì sao? Chuyện kể rằng vì tiền kiếp của ngài lúc còn là một đứa trẻ ngây thơ chưa biết gì, có lần nghịch ngợm lấy đá và bùn lấp một cái hang chuột khiến lũ chuột trong hang khốn đốn sáu ngày không ăn uống gì cả. Do đó, đời này ngài mắc quả báo ở trong bụng mẹ sáu năm. Khi ngài lên chín tuổi, đức Phật sai Tôn giả Mục-kiền-liên, vị đại đệ tử thần thông đệ nhất, về vương cung dẫn ngài đến sống bên mình; rồi bảo Tôn giả Xá-lợi-phất thế độ cho ngài xuất gia. Vì vậy, trong sử Phật giáo, ngài là vị tiểu Sa-di đầu tiên. Thời làm Sa-di, vì nghĩ mình là thái tử một nước nên ban đầu ngài chưa thoát khỏi tập quán xấu của thời quí tộc, đã bướng bỉnh lại còn hay gây sự phá rối, không chịu dụng tâm tinh tấn tu hành đàng hoàng. Một hôm, đức Phật không chịu được bèn gọi ngài đến và kể cho ngài nghe câu chuyện - Thuở quá khứ, có một vị vua nuôi một con voi dũng mãnh thiện chiến. Mỗi lần giao chiến với kẻ địch không lần nào nó không đánh thắng. Vua rất thương mến voi nên mặc cho toàn thân nó giáp sắt rất dày, tai, chân cũng bịt sắt, nhưng riêng vòi thì không. Vòi của nó là phần mềm nhất toàn thân, nếu không cẩn thận để bị trúng tên hay bị chém thì sẽ tử vong. Vì thế, để bảo vệ mạng sống mỗi lần tác chiến voi đều đặc biệt chú ý đến vòi. - Này La-hầu-la, con cũng nên bắt chước như con voi bảo vệ cái vòi vậy, phải hết sức thận trọng trong lời nói, việc làm. Con thấy đó, đời trước con nhỏ dại nghịch ngợm lấp hang chuột mà bị mắc quả báo ở trong bụng mẹ sáu năm không thấy ánh sáng. Nếu như bây giờ con cũng như vậy, suốt ngày chỉ biết ăn chơi lêu lỏng quậy phá làm nhiều việc xấu, không chịu nỗ lực tinh tấn tu tập, con không sợ hậu quả sẽ là một chuỗi ngày dài bất hạnh sao?! La-hầu-la nghe lời Phật dạy tỉnh ngộ. Từ đó, ngài hạ thủ công phu dụng công tu tập không dám biếng nhác nữa. Phát tâm dụng công tu tập, La-hầu-la thể hiện trọn vẹn những mỹ đức khiêm cung nhẫn nhục, không thích tranh cãi hơn thua nên phòng của ngài thường bị người khác chiếm ở; lắm lúc ngài phải vào nhà xí ngủ qua đêm. Một hôm, vì truyền đạo ngài bị tín đồ ngoại đạo đánh vỡ đầu. Thế nhưng, ngài vẫn không một lời than oán, lặng lẽ đến bờ suối rửa sạch máu dơ rồi dùng khăn băng vết thương lại. Có lần, có một tín chủ cúng cho ngài một tịnh thất làm nơi tu tập tọa thiền, giảng kinh thuyết pháp. Nhưng chẳng bao lâu tín chủ đó đòi lại rồi đem cúng cho người khác, ngài vẫn bình thản dọn ra khỏi phòng không chút giận hờn. Như thế đủ chứng minh hạnh nhẫn nhục của ngài thật sự là nhẫn nhục Ba-la-mật. Năm hai mươi tuổi, ngài chứng quả A-la-hán. Tuy đã chứng quả nhưng sống trong chúng, ngài không thích phô trương mà chỉ lặng lẽ tu tập, lặng lẽ hoằng pháp nên được đức Phật ặc biệt chọn vào hàng mười sáu vị La-hán lưu lại nhân gian. Mấy trăm năm sau, vua Thiết-thưởng-ca nước Câu-thi-na-la không tin Phật pháp đến độ đập phá chùa chiền, thiêu kinh hủy tượng, số người xuất gia ngày càng giảm nọ, có một vị Hòa thượng già chống gậy ôm bát vào thành đến từng nhà khất thực. Nhưng cả thành chẳng ai để ý tới, khó khăn lắm ngài mới gặp được một gia đình tin Phật. Họ cung kính cúng cho ngài một bát cháo nóng. Sau khi hớp xong miếng cháo, ngài thở dài. Vị thí chủ thấy vậy liền hỏi- Thưa ngài! cháo không ngon sao? - Ồ không, thời Phật pháp suy vi mà có một bát cháo để ăn là tốt lắm rồi. - Không phải thế, vậy sao ngài thở dài? - À, tôi chợt nhớ lại thuở xưa, lúc đức Thế Tôn còn tại thế, tôi thường ôm bát theo Ngài đến đây. Thời ấy, nhà nào cũng tin Phật, mọi người tranh nhau cúng dường, nhưng bây giờ thì khác hẳn, người tin Phật ngày càng ít, thật là chúng sanh phước mỏng nghiệp dày!. Vị Hòa thượng già không ngăn được nước mắt. Người thí chủ thấy lạ hỏi - Thưa hòa thượng! Ngài nói chính mắt ngài thấy đức Phật và từng ôm bát theo Ngài sao? - úng vậy! - Xin hỏi ngài là ai? - Này thí chủ, người có từng nghe nói La-hầu-la con của thái tử Tất-đạt-đa không? - Dạ có nghe. - Tôi chính là La-hầu-la. Suốt mấy trăm năm nay, tôi luôn dốc sức hoằng dương Phật pháp. – Nói xong, Hòa thượng biến mất. Chuyện này được ngài Huyền Trang ghi lại trong tác phẩm nổi tiếng “ại ường Tây Vực ký”. iều đó chứng tỏ việc ngài La-hầu-la lưu lại nhân gian là không chút ngụy biện. Đại Đường Tây Vực ký, thường được gọi tắt là Tây Vực ký, là một tập ký kể về hành trình 19 năm của nhà sư Huyền Trang xuất phát Trường An Trung Quốc du hành qua khu vực Tây Vực trong lịch sử Trung Quốc. Nhà sư đã đi qua Con đường tơ lụa của Tân Cương ngày nay ở phía tây bắc Trung Quốc, cũng như các khu vực lân cận ở Trung Á và Nam Trung Quốc. Ngoài các địa điểm này của Trung Quốc, Huyền Trang cũng đi vòng quanh Ấn Độ, đến tận phía nam như Kancheepuram. Chuyến du hành của Huyền Trang không chỉ giữ một vị trí quan trọng trong các nghiên cứu xuyên văn hóa của Trung Quốc và Ấn Độ, mà cả các nghiên cứu xuyên văn hóa trên toàn cầu. Tập ký vừa cung cấp những ghi chép trên đường hành hương tôn giáo của Huyền Trang, vừa ghi nhận các mô tả về các địa phương mà ông đi qua trong giai đoạn lịch sử thời Đường. Tập ký được biên soạn vào năm 646, mô tả các chuyến đi được thực hiện trong khoảng thời gian từ năm 626 đến năm 645. Biện Cơ, một đệ tử của Pháp sư Huyền Trang, đã dành hơn một năm để ghi chép và hiệu chỉnh tập sách từ những lời kể của thầy mình.
La Hầu La là con trai duy nhất của thái tử Tất Đạt Đa - tên gọi của Đức Phật trước khi xuất gia, khi ngài còn là thái tử của một đất nước. Từ nhỏ La Hầu La đã sống xa tình yêu thương của cha, tuy nhiên cuộc sống của Ngài cũng rất sung túc, giàu sang bên cạnh ông ngoại và mẫu thân. Vậy điều gì đã giúp La Hầu La đi theo con đường tu đạo, trở thành vị tôn giả trẻ tuổi nhất lúc bấy giờ? Hãy cùng Tự Thanh Quán đi tìm hiểu ngay sau đây nhé! Giới thiệu về phật La Hầu LaSự ra đời của La Hầu LaLa Hầu La được biết đến là người con trai ruột duy nhất của Đức Phật trước khi Ngài xuất gia. Chuyện kể rằng, từ xa xưa Đức Phật là thái tử, người được chỉ định sẽ kế thừa vương vị của đất nước. Tuy nhiên, Ngài lại có mong muốn được xuất gia, phù độ chúng sinh đem lại cuộc sống no đủ cho nhân loại. Vua cha lúc bấy giờ không chấp thuận, với mong muốn giữ chân con trai, nhà vua hạ lệnh chỉ cho phép thái tử xuất gia khi chàng hạ sinh được con trai đích tôn. Sau đó thái tử vì chiều lòng cũng như hoàn thành ước nguyện của cha đã cưới công chúa Da - du - đà - la và sinh ra một người con trai đặt tên là La Hầu La. Thái tử rất vui vẻ với sự ra đời của đứa con này vì cuối cùng Ngài cũng có thể lên đường đi theo lý tưởng cao cả của bản cuối trước khi ra đi, thái tử nhìn vợ và con trai lần cuối, khi đó La Hầu La mới được 7 ngày tuổi và leo lên lưng mã đi khỏi thành. La Hầu La là ai?Những ngày tháng sau đó, La Hầu La được ông ngoại và mẫu thân hết mực yêu thương, được sống một cuộc sống giàu có, hạnh phúc và là chỗ dựa vững chắc của cả quốc gia dân tộc. Xem ngay Toàn bộ về sự tích Địa Tạng Vương Bồ Tát bạn cần Hầu La đi theo con đường Phật giáoTuy nhiên, cậu bé năm nào vẫn canh cánh nỗi buồn chưa gặp được cha. Mãi đến năm 10 tuổi, La Hầu La mới gặp được lại Đức Phật tuy nhiên lúc này cha đã là vị Thánh cao cao tại thượng không còn được quá gần gũi, thân mật. Đức Phật cũng nhìn con đầy chua xót, canh cánh nỗi lòng vì dân vì nước bỏ qua việc nhà. Sau đó, Ngài đi theo con đường của cha để tu thành chín quả và đã trở thành vị tu chứng trẻ nhất khi mới 20 mí ý nghĩa tên La Hầu LaTheo truyền thuyết kể lại rằng, La Hầu La chính là cái tên Đức Phật tự mình đặt cho con trai Người với ý nghĩa “ràng buộc.” Đứa con sinh ra vừa là ước nguyện của vua cha, vừa là sự ràng buộc trách nhiệm đối với Thái tử. La Hầu La cũng là sợi dây ràng buộc tình cảm duy nhất của Ngài với trần bụi, với cuộc sống luân hồi tử sinh bình thường. Ý nghĩa tên La Hầu La từ đó được truyền tai nhau ngàn nghĩa tên La Hầu LaTuy theo đuổi con đường vì nhân dân, nhưng tình cảm ruột thịt thiêng liêng vẫn khiến Thái tử không khỏi chua xót, canh cánh nỗi đau khi bế La Hầu La trên tay. La Hầu La cùng mẫu thân đã trải qua quãng thời gian trần thế cho là cô đơn, hi sinh vì thiếu thốn tình cảm của người cha. Tuy nhiên rất nhiều ý kiến cho rằng sự hy sinh đó là có ý nghĩa bởi nó là động lực giúp Ngài tu thành chín quả sau này!Cách Đức Phật nuôi dạy La Hầu La cũng được người đời kính nể và trở thành tấm gương sáng truyền lại muôn đời. Ngài luôn dạy con phải trung thực và từ bi, không hề có sự thiên vị, đi theo con đường Thiền hành để phát triển nội tâm Tuệ giác để khai mở trí tuệ. Từ một cậu bé vương gia nghịch ngợm, thích trêu chọc người khác thuở mới tu hành, sau này La Hầu La đã trở thành vị Phật tuệ trí, bác ái. Xem ngay Địa Tạng Vương Bồ Tát là ai? Bí mật ý nghĩa của tượng?Mẫu tượng La Hầu La đẹp nhất hiện nayTự Thanh Quán là một trong những địa chỉ tâm linh uy tín và được biết đến nhiều tại Hà Nội. Chúng tôi cam kết đem đến những sản phẩm chất lượng nhất với nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, mẫu mã đa dạng, độ tinh xảo cùng độ bền cao theo thời gian. Hãy đến Tự Thanh Quán để đắm mình trong không gian tâm linh với những sản phẩm vô cùng đẹp mắt và tinh xảo nhé!Xem ngay Bỏ túi địa điểm mua tượng phật bà Quan Âm bằng gốm uy tínTrên đây là một số chia sẻ của Tự Thanh Quán về những câu chuyện thú vị xoay quanh phật La Hầu La là ai. Nếu bạn có bất cứ thắc mắc nào về tâm linh, hãy liên hệ với Tự Thanh Quán để nhận được tư vấn sớm nhất nhé! Chúng tôi tự hào là đơn vị uy tín luôn đồng hành cùng bạn!Xem ngay [FULL] 9+ Mẫu tượng phật quan âm đứng đẹp nhất
Atula là ai? Tại sao Phật Thích Ca lấy tên của Vua Atula đặt cho con trai. Ảnh Tổng hợp [Radio] - Đệ nhất mật hạnh trong số 10 đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng là con trai của Phật Thích Ca, tên là La Hầu La. Tại sao Phật Đà lại lấy cái tên của Vua Atula đặt tên cho con trai mình? Atula tồn tại như thế nào? Một trong những bức tranh bích họa ở hang Mạc Cao, Đôn Hoàng có vẽ rất nhiều Thần Tiên, đặc biệt trên đỉnh hang phía tây có một bức họa rất hoành tráng. Bức tranh vẽ núi Tu Di. Kinh Phật giảng, núi Tu Di là núi lớn ở trung tâm vũ trụ, trên đỉnh núi có một tòa thành, là cung Trời Đao Lợi. Ở giữa núi có một người khổng lồ da đen có 4 cánh tay, 1 tay nắm mặt trời, một tay nắm mặt trăng, dưới chân là biển cả. Nước biển sâu nhưng chưa ngập đến đầu gối của ông ta. Người khổng lồ này có tướng mạo đáng sợ, xung quanh ông có Thần Tiên các lộ, dường như ngầm nói rằng, người khổng lồ này có thân phận khác thường. Ông ta chính là Vua Atula, người trong tộc của ông ta được gọi là A-tu-la. Atula vốn là một trong các vị Thần viễn cổ của Ấn Độ, là vị quỷ Thần hung tợn hiếu chiến. Đối với người trẻ tuổi ngày nay thì A-tu-la cũng khá quen thuộc, bởi vì cái tên và hình tượng Atula thường xuất hiện trong tranh hoạt họa và trong game, thường là những nhân vật dũng mãnh hiếu chiến, có vẻ có chút tà ác. Atula là tiếng Phạn, nghĩa là “không đoan chính”. Không đoan chính tức là xấu xí. Họ là 1 trong 6 đạo chúng sinh, là một trong chúng Thần của Thiên Long bát bộ. Nếu nói họ là Thiên Thần nhưng họ lại không có thiện hạnh của Thiên Thần và tướng mạo xấu như quỷ. Nếu nói họ là quỷ nhưng họ lại có uy lực và thần thông của Thần. Nếu nói họ là người, tuy họ có thất tình lục dục như con người, nhưng họ cũng có uy lực của Thần và tính ác của quỷ. Có thể nói họ là phi Thần phi quỷ phi nhân, là quái vật ở giữa Thần, quỷ, người. Muốn thực sự hiểu rõ Atula, thì cần phải tìm hiểu từ sự ra đời của A-tu-la. Sự ra đời của Atula Trong “Quan Phật tam muội kinh” có ghi chép, khi thế giới vừa mới hình thành núi, biển và mặt đất, các Tiên nhân trên Thiên thượng bèn đến nhân gian chơi đùa. Trong đó có một Tiên nhân, trong khi tắm ở biển, thì không ngờ Thủy Tinh chui vào trong thân thể. Thân thể Tiên nhân liền mọc một quả trứng bằng thịt. Trải qua 8000 năm, một nữ quái sinh ra từ trong quả trứng đó. Nữ quái này trông rất đáng sợ, cao bằng núi Tu Di, trên mặt có ngàn con mắt, có 999 cái đầu, miệng, và tay, nhưng chỉ có 24 cái chân. Quái vật đáng sợ này chính là tổ tiên của Atula. Sau này nữ quái sinh ra Vua Atula, tên là Tỳ Ma Chất Đa, có uy lực vô cùng lớn, có thể đi lại tự do trên trời và dưới nhân gian. Nhưng Tỳ Ma Chất Đa trông cũng rất đáng sợ, có 9 đầu, 1000 mắt, 999 tay và 8 chân. Hình tướng của Tỳ Ma Chất Đa thì các họa sĩ hiện đại cũng không vẽ ra được, do đó chúng ta thấy tranh chân dung Vua Atula đều là những bức vẽ đã đơn giản hóa, ví như 4 mắt 4 tay… chỉ cần truyền đạt được ý là được rồi. Một ngày nọ, Tỳ Ma Chất Đa trông thấy Thiên nữ trên Thiên thượng rất xinh đẹp, liền nảy sinh ra ý muốn lấy vợ. Nữ quái biết rằng, con gái của Hương Thần Càn Thát Bà Gandharva trên Thiên giới đẹp như hoa như ngọc, nữ quái yêu con nên đã giúp con trai cầu hôn với Càn Thát Bà. Càn Thát Bà cũng vui vẻ đồng ý. Thế là tộc Atula ngày một sinh sôi nảy nở. Vua Atula kết hợp với Thiên nữ trải qua 8000 năm thì sinh ra một nữ Atula, đặt tên là Xá Chỉ. Khác với các Atula nam rất xấu xí, nữ Atula lại rất xinh đẹp. Sắc đẹp tuyệt thế của nữ Atula khiến Đế Thích Thiên ở Thiên giới cũng siêu lòng, thế là Đế Thích Thiên lập tức cầu hôn. Nhưng Vua Atula lại đưa ra điều kiện, ông ta nói rằng, nếu để ông ta ngồi ở cung điện Thất Bảo thì mới đồng ý cho con gái làm Vương phi của Đế Thích Thiên. Đế Thích Thiên nghe vậy liền lập tức tháo chiếc mũ báu xuống và ném xuống biển, liền biến thành một cung điện. Bằng công đức tu hành thập thiện, Đế Thích Thiên đã để cho Vua Atula ngồi lên cung điện Thất Bảo. Thế là Vua Atula đã đồng ý gả con gái Xá Chỉ cho Đế Thích Thiên. Đế Thích Thiên cũng rất sủng ái cô. Nhưng những ngày hạnh phúc mỹ mãn không kéo dài, bởi vì tuy con gái của Vua Atula vô cùng xinh đẹp, nhưng tính tình cũng rất ghen ghét đố kỵ. Một ngày nọ, Xá Chỉ vô ý trông thấy Đế Thích Thiên và các Thái nữ vui đùa trong bể nước, thì bỗng cơn ghen thiêu đốt trái tim. Xá Chỉ lập tức sai 5 Dạ Xoa đi tố cáo với phụ thân. Bởi vì tộc Atula tính tình ngạo mạn, không ai dám động vào, nhất là các nam Atula lại rất hiếu chiến. Khi Vua Atula nghe tin Đế Thích Thiên thích mới chán cũ thì bỗng nhiên nổi giận, liền dẫn đại quân phát động chiến tranh với Thiên giới. Đây chính là một trong những cuộc chiến nổi tiếng giữa Atula và Thiên nhân. Cuộc chiến giữa Vua Atula và Thiên nhân Trong cuộc chiến tranh này, đại quân của Vua Atula bao vây núi Tu Di trùng trùng lớp lớp. Lúc này, Đế Thích Thiên nhớ lại Phật Đà đã từng nói rằng, khi gặp đại nạn, chỉ cần trì chú thì có thể phá giải quỷ binh. Trong cuộc chiến tranh này, đại quân của Vua Atula bao vây núi Tu Di trùng trùng lớp lớp. Ảnh minh họa Miền công cộng Quả nhiên khi ông trì chú thì từ ngang trời có 4 bánh xe đao bay ra, hầu như là diệt hết đại quân Atula. Những Atula thảm bại chạy trốn, nhưng cuộc chiến giữa Thiên nhân và Atula vẫn chưa kết thúc. Cùng với thời gian qua đi, tộc Atula lại dần dần phát triển lớn mạnh, họ hình thành 4 bộ lạc, mỗi bộ lạc có một Vua Atula cầm đầu, mỗi Vua Atula thống lĩnh hàng ngàn vạn Atula, gọi là Atula chúng, hoặc gia quyến Atula. 4 Vua Atula nổi tiếng này, một người là Bà Nhã, nghĩa là dũng mãnh, là vị thống soái tiền quân của Atula chiến đấu với Đế Thích Thiên. Một người nữa là La Trại Đà, nghĩa là thét như sấm, cũng gọi là Vai Rộng, vì ông ta có cái vai rất lớn. Một người nữa là Tỳ Ma Chất Đa như đã nói ở phần trên, ý nghĩa là vòng hoa. Một người tên là La Hầu La, ý nghĩa là che lấp, ông ta có thể dùng bàn tay tô lớn che lấp ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Cuộc chiến của thế lực ác này với Thiên giới không chỉ một lần. Bọn họ chú định là phải chịu khổ trên chiến trường. Lý do khai chiến đều gắn liền với ghen ghét đố kỵ, và tính khí nóng nảy bạo ngược của Atula. Những người biết các câu chuyện Phật giáo có lẽ đều quen thuộc với cái tên La Hầu La này. Đệ nhất mật hạnh trong số 10 đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng là con trai của Phật Thích Ca, cũng tên là La Hầu La. Tại sao Phật Đà lại lấy cái tên của Vua Atula đặt tên cho con trai mình? Trước tiên, chúng ta hãy nói về câu chuyện của Vua Atula Ha Hầu La. Tương truyền, Vua Atula La Hầu La đã từng có lần dùng 2 tay che tháp Phật khi thiên tai. Trong quan niệm của Phật giáo, tháp Phật vô cùng trang nghiêm thần thánh, có câu nói rằng “Thấy tháp như thấy Phật tổ”. Các Phật tử nếu thấy tháp thì đều để hở vai phải, và đi quanh tháp 3 vòng, coi đó là lễ Phật. Bởi vì Vua Atula La Hầu La bảo vệ tháp Phật nên Phật tổ thấy thiện căn của ông ta chưa mất hết, bèn thu nhận ông ta làm hộ Pháp, đó chính là 1 trong Thiên Long bát bộ mà chúng ta biết. Nói đến Thiên Long bát bộ, đầu tiên mọi người sẽ nghĩ đến tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, thực ra, Thiên Long bát bộ là thuật ngữ trong Phật giáo, là Bát bộ chúng sinh thiện đạo, là Thần hộ Pháp của Phật Pháp. Chức trách của họ là bảo hộ Phật Pháp, tránh bị yêu ma xâm phạm hay can nhiễu. Thiên Long bát bộ đều là phi nhân’, bao gồm 8 loại quái vật ở Thần đạo. Một là Thiên chúng Deva, hai là Long chúng Naga, ba là Dạ Xoa Yaksa, bốn là Càn Thát Bà gandharva, năm là Atula asura, sáu là Ca Lâu La garuda, bẩy là Khẩn Na La kinnara, tám là Ma Hầu La Già mahoraga Mọi người có lẽ cảm thầy kỳ lạ, rằng Atula chẳng phải là quái vật đó sao, sao lại có thể trở thành Thần hộ Pháp? Chúng ta biết trong Phật giáo giảng về Lục đạo, gồm Thiên đạo, Atula đạo, Nhân đạo, Súc sinh đạo, Ngạ quỷ đạo và Địa ngục đạo. Thiên đạo, Atula đạo và Nhân đạo thuộc về Tam thiện đạo. Tam thiện đạo tuy có thống khổ và cũng không viên mãn, nhưng sinh mệnh vẫn còn có cơ hội thăng hoa hướng lên thành hình thái sinh mệnh cao cấp. Do đó gọi là Tam thiện đạo. Còn Súc sinh đạo, Ngạ quỷ đạo và Địa ngục đạo thuộc về Tam ác đạo. 6 đạo chúng sinh này sau khi chết đều luân hồi chuyển thế trong Lục đạo luân hồi. Thiên nhân tuy có khả năng tiến thêm một bước thành Phật, Bồ Tát, như hy vọng rất mù mịt, bởi vì họ suốt ngày hưởng lạc mà quên tinh tấn, đại đa số đều rơi xuống 4 đạo thấp cấp hơn là người, súc sinh, địa ngục và ngạ quỷ, chỉ có trường hợp cực kỳ cá biệt, có năng lực phản tỉnh, thì mới có cơ hội triệt để giải thoát. Atula tiếng Phạn cũng có nghĩa là phi thiên, do đó Atula đạo là phi thiên giới’, họ có thể sống hưởng phúc như thiên nhân, nhưng lại không có đức hạnh của thiên nhân. Họ khả năng đời trước cũng là người có tu hành, hoặc là thiên nhân, phúc phận khá lớn, tuy nhiên, về phương diện thân khẩu ý thì có những việc xấu ác nhỏ, tâm tính có khiếm khuyết, ví như ngạo mạn hoặc đố kỵ, do đó cuối cùng bị rơi vào Atula đạo. Điều này nói rõ rằng, trong giới tu luyện, tâm tật đố rất được xem trọng. Trong kinh điển Phật giáo “Tạp dụ kinh” có ghi chép câu chuyện như sau Đời trước của Vua Atula là một người nghèo, sống trong một ngôi nhà nhỏ bên dòng sông lớn. Người nghèo này thường phải chặt củi rồi qua sông bán ở phiên chợ. Nhưng con sông lớn thường xuyên có lũ, nước sông lại sâu, nước lại chảy xiết. Đã nhiều lần người nghèo này suýt nữa thì bị nước sông nhấn chìm, may mà cuối cùng đều thoát mạng. Một ngày nọ, một tăng nhân Phật môn là hóa thân của một vị Bích Chi Phật đến trước cửa nhà người nghèo này hóa duyên. Người kiếm củi này thấy tăng nhân Phật môn đến nhà mình thì cảm thấy vô cùng hoan hỉ, vội vàng mời tăng nhân vào trong nhà. Anh ta dùng tất cả thức ăn trong nhà để làm một bữa chay cúng dường tăng nhân. Vị Bích Chi Phật ăn cơm chay xong thì ném chiếc bát lên trên không và vút lên không bay đi. Anh kiếm củi ngây người ra nhìn, anh ta hướng về phía Bích Chi Phật phát nguyện, mong muốn đời sau có được thân thể cao lớn, có thể qua sông dễ dàng hơn. Do nhân duyên này nên người kiếm củi đã được phúc báo, đời sau có được hình dạng cao lớn như thế này. Thân hình khổng lồ, có nhiều mắt nhiều tay, nhìn cung trời Đao Lợi ở phía dưới. Câu chuyện này thực hư như thế nào, chúng ta không khảo cứu. Nhưng câu chuyện này đã nói rõ một điểm. Đó là, người nghèo này cho dù cuộc sống túng bấn cũng dốc hết thức ăn trong nhà để cúng dường tăng nhân, điều đó có nghĩa là, phúc phận mà đời trước của Atula tích được đều đến từ việc ông ta vui thích bố thí, ông ta coi việc bố thí là quan trọng hơn tất cả. Tuy nhiên, ông ta không biết trì giới, không biết nhẫn nhục, và còn nóng tính, tâm ngạo mạn và hiếu thắng còn lớn, do đó sau khi chuyển sinh thì trở thành Atula, được hướng phúc báo mà đời trước tích được, còn đời này tiếp tục đánh giết tạo nghiệp trong Atula đạo, đời sau rất có thể rơi vào Tam ác đạo. Cuộc chiến giữa Thiên nhân và Atula lần thứ 2 Ở trên đã nói, Vua Atula sau khi bị Đế Thích Thiên đánh bại, tộc Atula dần dần phát triển lớn mạnh, sau đó hình thành 4 bộ tộc, mỗi bộ tộc có một Vua Atula lãnh đạo. Theo kinh “Pháp cú thí dụ kinh” ghi chép, trải qua nhiều năm sau, Đế Thích Thiên lại để mắt đến một Atula nữ, muốn cưới về làm vương phi. Người được Đế Thích Thiên phải lòng này chính là con gái của Vua Atula La Hầu La. Về con gái của La Hầu La, kinh “Pháp cú thí dụ kinh” miêu tả cô rất đẹp, khi nói mùi hơi thở giống như mùi hương của hoa Ưu Bát La, mùi từ lỗ chân lông thoát ra thơm hơn mùi hương gỗ đàn hương, sắc mặt hồng hào, da như ngọc. Những người trông thấy cô, không ai là không yêu thích. Để cưới con gái của Vua Atula làm vương phi, Đế Thích Thiên bèn phái Nhạc Thần trên Thiên thượng đem theo sính lễ, và dùng ca khúc để dẫn dụ Vua Atula đồng ý hôn nhân. Vua Atula nghe xong thì bực tức, không nói năng gì, liền đuổi Nhạc Thần ra khỏi cung, còn điều động binh mã chuẩn bị tấn cung cung Đế Thích Thiên. Đế Thích Thiên vẫn dựa vào trì chú như lần trước, liên tiếp đánh bại đội quân Atula, còn bắt được con gái Vua Atula. Đế Thích Thiên vẫn dựa vào trì chú như lần trước, liên tiếp đánh bại đội quân Atula, còn bắt được con gái Vua Atula. Ảnh minh họa Miền công cộng Thấy Đế Thích Thiên làm cũng không đúng, La Hầu La bèn sai sứ giả đi đàm phán, chỉ ra rằng, Đế Thích Thiên là đệ tử của Phật, không nên phạm giới cướp đoạt. Đế Thích Thiên nghe thấy có đạo lý, thấy mình đã phạm giới, bèn trả con gái Vua Atula trở về, và tặng nước cam lồ của Thiên thượng. Còn La Hầu La cũng hạ thấp cái tôi xuống, đem con gái tặng cho Đế Thích Thiên, đồng thời tự nguyện thọ trì tam quy ngũ giới, trở thành đệ tử của Phật. Việc này cũng coi là kết thúc có hậu. Từ đây có thể nhìn ra, duyên tu hành của Vua Atula cũng không bình thường. Nhưng việc này có quan hệ như thế nào với con trai của Phật Thích Ca Mâu Ni? Tại sao Phật tổ lấy tên Vua Atula đặt tên cho con trai mình? Con trai của Phật Đà La Hầu La Tương truyền, đời trước của La Hầu La, con trai của Phật Đà, cũng là một người tu luyện. Một ngày nọ, ông đang ngồi đả tọa thì bị tiếng chuột gặm gỗ gây ồn. Đả tọa cần yên tĩnh. Thế là ông bịt lỗ chuột lại, bịt liền 6 ngày. Đến ngày thứ 6, ông nghĩ đến lỗ chuột bị bịt, bèn mở lại lỗ chuột. Ông phát hiện ra, con chuột đã chịu đói 6 ngày ở trong hang, tuy còn sống nhưng đã gầy đi nhiều. Trước khi Phật Thích Ca Mâu Ni xuất gia, thê tử của Ngài có mang La Hầu La. Khi Phật Thích Ca Mâu Ni đả tọa 6 năm ở trên núi Tuyết Sơn, thì La Hầu La ở trong bụng mẹ 6 năm mới chào đời. Việc này chính là quả báo bít hang chuột 6 ngày đời trước. Hơn nữa La Hầu La chào đời vào lúc nguyệt thực, nên mới đặt tên là La Hầu La, có nghĩa là che lấp, nghĩa là che lấp nghiệp chướng. Đây chính là ghi chép về La Hầu La trong Phật giáo. Nhưng khác với trong Phật giáo, Atula là sinh vật phi nhân phi quỷ phi Thần, trong Bà la môn giáo của Ấn Độ, Atula được liệt vào Thần tộc. Trong Thần thoại Ấn Độ cổ, bất kể là Thiên nhân hay Atula, họ đều do Phạm Thiên, vị Thần Sáng Tạo sinh ra. Chúng Thần, bao gồm cả Atula và Thiên nhân đều cư trú ở núi Tu Di. Núi Tu Di lại ở biển của vũ trụ - Nhũ Hải. Khuấy động Nhũ Hải Trong biển Nhũ Hải có một vật đặc biệt có thể khiến chúng Thần trường sinh bất tử nước cam lồ bất tử. Atula và các Thiên nhân khác đều muốn có được vật này, do đó thường xảy ra chiến tranh. Trong một lần chiến tranh khốc liệt, Phạm Thiên, vị Thần Sáng Tạo, cha của họ không chịu được nữa, bèn ra lệnh cho họ hợp tác cùng nhau khuấy động Nhũ Hải, sau đó 2 bên cùng nhau chia nước cam lồ bất tử. Chúng Thần hợp lực khuấy động Nhũ Hải, cuối cùng nước cam lồ bất tử đã xuất hiện, nhưng lại bị Atula, những kẻ muốn chiếm riêng cướp đi. Thần Vishnu lo rằng sau khi Atula độc chiếm nước cam lồ bất tử, sẽ phá hoại sự cân bằng của thế giới, Thần bèn hóa thành vô số mỹ nữ, cuốn hút và đưa tộc Atula, kẻ vốn chiếm được nước cam lồ bất tử, trở về nơi cũ, và lấy lại được nước cam lồ. Sau đó, Thần đến chỗ các Thiên nhân, cho họ uống nước cam lồ trường sinh bất lão. Trong Thần thoại Ấn Độ, trong tộc Atula cũng có một Atula tên là La Hầu La, người này không bị mỹ nữ do Thần Vishnu hóa ra hớp hồn. La Hầu La hóa thân thành Thiên nhân, trà trộn trong Thiên nhân, và được uống nước cam lồ bất tử. Nhưng hành vi của ông ta bị Thần Mặt trời và Thần Mặt trăng phát hiện ra, và báo cho Thần Vishnu. Thần Vishnu lập tức ra tay, chặt đầu La Hầu La, lúc đó đang ngậm nước cam lồ, chưa kịp nuốt xuống bụng. Từ phần cổ trở lên của La Hầu La do có nước cam lồ nên không chết, trái lại còn truy sát Thần Mặt trời và Thần Mặt trăng vì tội tố cáo. Nhưng vì từ phần cổ trở xuống đã bị Thần Vishnu hủy diệt, nên mỗi lần La Hầu La đem Thần Mặt trời và Thần Mặt trăng nuốt vào trong miệng, thì lại từ trong cổ họng chui ra. Đây chính là nguồn gốc của nhật thực và nguyệt thực. Sau khi uống nước cam lồ bất tử, sức mạnh các Thiên nhân tăng mạnh, do đó đã nhanh chóng đuổi tộc Atula ra khỏi núi Tu Di. Sự thù hận giữa 2 bên lại càng sâu hơn, và bắt đầu những cuộc chiến không có hồi kết thúc. Tộc Atula bị đánh tơi bời. Từ đó trở đi, Atula đều muốn trở lại Thiên giới, nhưng Thiên nhân có sức mạnh quá lớn. Sau khi Atula Đa La Già ra đời, ông ta dốc sức tu hành khổ hạnh, hy vọng sẽ có được sức mạnh. Phạm Thiên cảm động bởi thành tâm của ông ta, nên đã giáng phúc, Đa La Già từ đó thường thắng bất bại, nhưng nhược điểm duy nhất của ông là con trai của Thần Shiva có thể giết chết ông ta. Atula dưới sự lãnh đạo của Vua Atula Đa La Già lại tấn công núi Tu Di, Thiên nhân bị đánh bại liên tiếp. Các Thiên nhân thấy sắp tiêu vong liền lập tức cầu cứu Phạm Thiên. Lúc này họ mới được biết, chỉ có con trai của Thần Shiva mới có thể giải quyết được. Chúng Thần cầu cứu, con trai của Thần Shiva là Thất Kiện Đà. Thất Kiện Đà có được Thiên binh Thiên tướng của Nhân Đà La, đã đánh bại Đa La Già, khôi phục lại hòa bình cho Thiên giới, do đó ông trở thành nguyên soái của Thiên binh Thiên tướng. Cho đến ngày nay, Atula vẫn bị đuổi ra khỏi núi Tu Di, nhưng vẫn tranh chấp không ngừng nghỉ với Thiên nhân, và vẫn thường xảy ra các cuộc đại chiến. Mỗi lần chiến tranh, Atula đều bị tử thương vô số, do đó tình hình thảm khốc được gọi là “tu la trường”. Do đó tu la trường ngày nay có ý nghĩa đấu tranh hoặc tác chiến. Tường Hòa Theo Earth Inn
cái chết của la hầu la